VỀ MỘT CUỘC HÀNH TRÌNH - TÁC GIẢ NGÔ BÁ TIẾT
- PHẦN IV - BÀI 46
Nằm co quắp, tay bị trói bằng những sợi tháo ra từ bao bố, một đầu
buộc vào cọc gỗ gắn chặt vào thân thuyền; chưa biết sống, chết ra sao, nhưng Tôn vẫn bình tĩnh, tự dặn, phải chủ động trong mọi tình huống. Ở trong
mui, cũng mấy cặp bị trói như anh. Nhưng họ không phải dân buôn bán, không “đầu
trộm, đuôi cướp” thì cũng thuộc loại “chém đinh, chặt sắt”. Còn hai thằng bé, sao
lại phải vào nơi chốn dao, búa này?
Anh theo thuyền buôn bắp,
đang về xuôi. Người lái hình như không thuộc địa hình. Trên thuyền, ngoài anh
ra, chỉ là mấy người đi buôn đường dài. Được một đoạn, vào vùng thác xoáy, thuyền bị lật. Một thuyền khác, từ dưới, xông
lên ập vào. Thế là tất cả rơi vào tay bọn cướp. Rồi người nhà binh vây bắt bọn
buôn hàng cấm. Tất cả đưa vào đồn. Họ bắt đầu phân loại. Mấy người buôn bán và bọn trẻ con được thả đầu tiên. Hai toán gồm
bọn trộm cắp và bọn buôn hàng cấm cho vào phòng kín, giam lại. Còn một người
nữa, chưa rõ lai lịch; được mở trói, đưa
vào phòng có cửa, có khóa chờ lệnh.
Anh lính gác, như thường
lệ, sáng sớm vào phòng ông Đội, thuật lại những việc xảy ra của ngày hôm trước. Ông Đội còn dùng dằng khi người
lính xin ý kiến về “người tù” chưa biết rõ:
-Anh về làm tiếp nhiệm
vụ, khoảng một giờ nữa, quay lại.
Tối qua, ăn cơm xong, bà
ở nhà có than phiền, con bé giúp việc vì nhà có tang đã xin về quê hơn tháng
rồi mà không thấy ra; nhắn vào mấy lần không được, muốn ông tìm cho người khác.
“Ta hỏi xem người tù này… Biết đâu? Thử lấy độc trị độc!”.
Nghe tiếng gõ cửa:
-Cứ vào!
Người lính bước vào, trên
mặt vẫn còn mấy nét căng thẳng.
-Có chuyện đột xuất?
-Tôi chưa tìm được đồ ăn
sáng cho anh ta.
-Chuyện nhỏ ta tính sau. Bây giờ, anh lấy xe tôi,
đạp về nhà, bảo bà nhà tôi, có người này giúp. Bà ưng ý, anh đưa về, rồi nghỉ trưa
luôn.
Trưa, ông đi bộ về, đang nói chuyện vui với mấy
người hàng xóm, thoáng chốc đã đến cổng nhà. Phía bên con chó đốm nằm ở sân,
nơi góc xa, gần nhà bếp, một người đàn ông đang bổ củi, lại mặc bộ đồ của ông
mà chiều chiều ra đi dạo ngoài bờ sông. Giữ thái độ vô tư, ông đi thẳng vào
nhà, tới chỗ bàn làm việc; móc mũ lên giá, cởi áo ngoài, ngồi ngả lưng trên
ghế. Như thường ngày, bà vào, đến cạnh; ông đã hỏi:
-Tôi có chọn nhầm người để giúp bà không?
-Tôi mong ông về từ chiều…
-Bà có chuyện khó nói?
-Không.
-Tôi thầm phục bà, vì bà rất tinh ý khi có người lạ ở trong nhà.
-Chỉ một ngày thôi, tạm gọi là “được”: cậu ta bửa củi, dùng búa đưa lên
vừa phải, bổ nhẹ, thanh củi tách ra nhẹ nhàng, không tốn nhiều sức. Giữa chiều,
tôi đi chợ về, đứng ở cổng, xem cậu ta tắm cho con Đốm, sao nó hiền thế, khác
với mọi khi con Hoàng tắm cho nó mà như đánh vật với nhau vậy! Dùng ruột trái
mướp khô, xoa xà bông rồi chải lên người nó, bốn chân nó run run. Con Hoàng
ngồi cười thoải mái tự nhiên. Tôi không biết hai người đã nói chuyện gì với
nhau.
-Còn ăn uống và nơi ngủ?
-Trưa nay, tôi gọi lên cùng ăn chung, nhưng cậu ta xin phép ông bà cho
ngồi riêng. Còn chỗ ngủ, cứ ở phòng cái bé giúp việc. Tôi đã dọn dẹp, vệ sinh.
Ngày hôm sau đi làm về, vừa đạp xe bon bon, đã thấy bà cắp rổ rau đang
nói chuyện với các bà vừa làm đồng về. Ai cũng mở lời chào ông Đội. Ông chỉ
cười tủm tỉm. Chào mọi người, ông dắt xe cùng đi hàng đôi với bà:
-Sáng nay, cậu ta giảng về toán cho con bé.
-Bà có hỏi gì thêm về hoàn cảnh…
-Không. Tôi suy nghĩ: hãy còn quá sớm!
Theo nếp sống thường ngày, ăn tối xong, ba bà con ngồi uống nước, nói
chuyện. Ông hay kể chuyện vui ở nơi làm việc. Ông quay về phía Hoàng:
-Toán loại nào con thấy khó hiểu? Anh ta giảng giải ra sao?
-Phần đại số vừa mới vừa lạ… Mà sao lại bị cầm tù
hở ba?
Đã mười ngày, thời gian với Tôn, vừa nhanh lại vừa
chậm. Có khi anh hình dung được vài ba tháng sắp đến; có khi chỉ tính được vài ba
ngày mà thôi. Những việc mà anh “giúp” bà chủ, dù sao cũng có một chút “niềm
vui”; anh linh cảm rằng, nơi đây không phải lo lắng, băn khoăn mà anh ngày ngày
phải chung sống!
Sáng nay, trời trong, nắng nhạt và gió nhẹ; Tôn
chẻ mấy thanh củi xong, sắp lên một chồng từng lớp như bậc thang, trông ngồ
ngộ. Hoàng vừa ôn bài xong, nhảy từ nhà ra sân, bước tới vườn định sắp lại mấy
chậu cúc cho thẳng hàng thì Tôn bảo:
-Em chăm hoa còn anh tưới rau.
Hoàng vào bếp xách ra cho anh chiếc gàu tôn:
-Mình múc nước dưới cống, được không anh?
-Phải tưới nước sạch để khi hái làm rau sống, ăn mới tốt.
Bà Đội từ vườn đi vào sân, ôm bó lá chuối, dừng
lại, nhìn bao quát: Phía bụi “tre cán giáo”, hai con chích chòe đang đùa giỡn,
nhổ lông cho nhau. Khung cảnh này, giữa người và thiên nhiên, sống thân thiện.
Bà không tụng kinh, gõ mõ, nhưng lòng bà cùng hướng về phía đạo Phật.
Ông Đội trưa nay về sớm. Đạp xe sắp đến nhà thì xe
tuột xích. Ông ngồi chữa một lúc, hai bàn tay bê bết dầu, vẫn không ổn; ông
đành phải dắt bộ. Tưới rau xong, Tôn đang cùng Hoàng cắt, tỉa mấy cây hoa, nhìn
ra phía xa, thấy ông đang dắt xe chầm chậm; anh phóng ra cổng, đến gần, cầm lên
tay lái, nói nhỏ:
-Xích bị sự cố, xin phép ông để tôi dắt vào.
Chọn góc sân có ít lá rụng, Tôn đặt xe nằm xuống,
thì ông mang ra cho anh thùng đồ nghề. Mở ra, lấy búa, cái đột và con ốc sắt,
trong phút chốc, anh đã cắt bớt một đoạn dây xích, lắp vào. Dựng xe đứng lên,
anh dùng khăn lau khung xe, rồi lau rất kĩ sợi dây xích, tiếp theo nhỏ nhớt vừa
mỏng vừa đều; sau cùng là lau sạch lớp nhớt. Ông Đội đứng nhìn anh làm, vừa chú
ý, vừa như không. Một lúc sau, Hoàng pha trà, bưng lên phòng khách, ra mời ông,
bà và Tôn vào uống nước. Chuyện không có gì phải bận tâm, thế mà sau này anh
nghe bà nói lại: “Ông không hiểu tại sao,
khi tra nhớt vào xích, anh lại dùng khăn lau sạch”. Anh nói cho bà và Hoàng là nhớt còn thừa nhiều thì cát
và bụi sẽ bám vào làm bẩn xích, nó mòn nhanh hơn. Nghe bà nói lại chuyện cỏn
con như thế cho nên sáng hôm sau, không đi làm, ông cùng bà ngồi nói chuyện với
Tôn. Ông có thói quen là khi có khách dù là thân hay sơ, bao giờ cũng có ấm trà
nóng. Ông rót đầy ba cốc, đưa cho bà, mời Tôn và ông bưng cốc, vừa uống vừa bắt
đầu:
-Anh tên Cư à?
-Dạ thưa, không phải ạ. Khi ở trong phòng giam,
tôi khai đại là Cu. Với gia đình, cứ gọi là Tôn.
-Anh đi đâu mà bị bắt cùng với bọn bất hảo?
-Từ quê, tôi đang tính vào phía nam…
Ông ngắt lời Tôn:
-Quê là… à, ở nơi đâu?
-Dạ. Là Thuận Biều.
Ông ngồi trầm ngâm. Bà nhìn sang ông, bất chợt - hay ông bị “bệnh nghề nghiệp”, ít khi nói chuyện mà ông
ngắt lời người khác! - bà thay đổi tư thế ngồi,
ghé về phía Tôn:
-Gia đình muốn anh giúp Hoàng học toán và một số
môn nữa. Còn tiếng Pháp thì nhờ cô giáo cũ.
-Tôi sẽ cố gắng. Nhưng bà hỏi thêm ý của Hoàng.
Nhìn thấy Hoàng ôm vở ra khỏi phòng học, biết ý;
Tôn xin phép đi ra ngoài.
-Có chuyện gì mà ngồi lâu thế?
-Chuyện học của em thôi.
Khi còn lại hai người, bà mới hỏi ông:
-Ông có gì hoài nghi,,,
-Không nghi kị gì cả, nhưng muốn biết thêm vài
điều.
-Tốt hơn hết, ông nên ngồi nói chuyện với anh ta
thêm một lần nữa. À, mà…Ông ơi, tiện hôm nay rảnh rỗi, ta bàn tiếp việc hôm
trước.
-Tôi hiểu được ý bà: Sang năm tôi nghỉ hưu - làm thêm một, hai năm nữa cũng được - nhưng vợ chồng bác Từ bên Paris gởi thư về muốn hai cha
con tôi qua sớm. Còn bà thu xếp việc nhà rồi sẽ sang sau.
-Chỉ còn lo trau dồi tiếng Pháp cho Hoàng nữa mà
thôi.
Ông đứng
lên, do dự một lát, quay lại nói với bà:
-Hôm nay bà chưa đi chợ, hay tôi chở bà đi.
-Vui thế này, không đi thì tiếc lắm, nhưng tôi mua
hến rồi, trưa nay tôi đãi cả nhà.
Tự nhiên, lòng bà thấy phấn chấn: chuyện đi Pháp
thì dùng tiền hưu của ông, còn ăn, ở thì bà con giúp, bà nhớ buổi tối trên con
đường thơ mộng, lần đầu ông ôm bà, cảm giác đó không bao giờ phai mờ, bầu trời
đầy sao, ở phía xa, tiếng còi tàu rời ga. Mấy chục năm rồi, sống với nhau đầm
ấm, chỉ duy nhất có đứa con gái, ông gần với “hoàng tộc” nhưng ở giữa đời
thường, chả có gì làm ông phải suy tư.
///---///--- Hết bài thứ 46
Nguồn: Về một cuộc hành trình - Tác giả Ngô Bá Tiết
0 nhận xét:
Đăng nhận xét