VỀ MỘT CUỘC HÀNH TRÌNH - TÁC GIẢ NGÔ BÁ TIẾT
- PHẦN III - BÀI 30
Buổi
tối, Mậu dành thời gian khá lớn, xem lại những ghi chép, mà thời gian qua, anh
chú tâm: nghiêng về con người tử tế, hơn là kẻ du thủ du thực. Anh Núi phải gặp
anh ta lần nữa, để biết thêm về gia đình, quê quán… hoàn cảnh những năm tháng
đã qua. Cũng không thể trách ông Mậu, con người quá kĩ tính, vì những trải nghiệm,
những va đập chua xót.
Buổi
sáng, Tôn vừa ăn xong, đang muốn đi ra ngoài, thì Mậu và Núi bước vào. Dù chưa
gặp, nhưng Tôn không bất ngờ vì biết “cái chuyện này” thế nào cũng đến.
-Ông
Mậu dành sáng nay để chúng ta cùng nói chuyện.
Tôn
đứng dậy, tay phải cầm cổ tay trái, nói nhỏ nhẹ:
-Tôi
muốn nói lời cảm ơn, e rằng khách sáo quá!
-Ông
Mậu muốn anh em mình ra ngoài vườn, vừa uống nước, vừa nói chuyện.
Anh
Núi bước trước, tiếp theo là Tôn. Ông Mậu đi sau cùng – dáng đi, phần nào đó,
thể hiện tính cách. Tôn không ngờ rằng, cạnh sân, sau hàng tre cắm đơn sơ, mấy
cây mướp trổ hoa vàng đẹp quá; chỗ ngồi là gốc cây rừng đẽo thành bàn và mấy
chiếc ghế, đơn giản mà sang trọng. Chiếc mâm tre, đặt bộ ấm chén màu xanh ngọc,
mùi trà nóng, thoang thoảng, gợi vào lòng người cảm giác bình an. Nếu không nhầm,
đây là lần đầu, sau biết bao ngày tháng…
-Anh
Núi đã bày tỏ chuyện trà. Anh đã đi xem cơ ngơi của chúng tôi. Anh Núi có sáng
kiến, gọi là “Trà Mậu”, còn riêng tôi, e còn sớm quá, chất lượng phải độc đáo;
mùi vị khi khách nhâm nhi li trà, làm con người ta ngây ngất trong cảm giác khó
diễn tả thành lời.
Núi
ngồi nghe rồi cầm con chim bằng gỗ để ở bên cạnh, đi ra phía ngoài, lau bụi,
thì Mậu gọi lại:
-Anh
cứ ngồi nói chuyện cùng chúng tôi.
Lần
gặp tiếp theo, Mậu đưa Tôn vào phòng vây kín bằng ván, chỉ mấy mét vuông; nhưng
bên trên, có cửa thông gió, nên không khí rất mát. Hai người ngồi trên hai ghế
nhỏ, đối diện. Có lẽ, trong đầu Mậu, lúc nào cũng nghĩ đến trà nên khi gặp Tôn,
dù chưa biết, nhưng có một hy vọng thô sơ nào đó, mong Tôn mở lối, dù là…
-Tôi
gần ông chưa nhiều, nhưng tôi hiểu được tâm tư ông. Với ông, nỗi niềm về trà,
có thể nói, như một tín đồ, mê đạo trà.
-Đúng.
Ông đã phần nào hiểu được. Không biết có quá lố không, khi tôi bộc lộ với ông
điều này: tôi chưa đi tu, cũng chưa hiểu gì nhiều về đạo Phật, từ khi ấp ủ theo
cái nghiệp này, chiều sâu trong tâm can có sự chuyển, gọi là “tà” – tạm coi như
thế - sang “thiện”.
-Tính
cách như ông, nếu không nhầm - tôi trộm nghĩ
- làm sao ông có thể làm hại người
được?
-Con
người ta làm sao quên được quá khứ, những ký ức, mà đó là vết thương rỉ máu
không bao giờ lành?
Mặt
Mậu đanh lại, quay nhìn sang chỗ khác; liếc rất nhanh, nhìn khuôn mặt con người
mới gặp lần đầu. Tôn lập tức dịu giọng, chuyển câu chuyện:
-Ông
có biết, chuyện trà bên Nhật không?
-Mong
ông…
-Tôi
chỉ nhờ đọc sách đâu đó: mà cầu kì lắm cơ! Phải dùng ấm chén ra sao, nấu nước,
tráng bình… Đến bàn ghế, cách ngồi. Động tác uống trà thật đặc biệt, làm như
nghệ sĩ xiếc! Phải học người Nhật, ít ra là về cách sống.
Trà
đạo (Chanoyu), thế kỉ XV ở Nhật Bản, giai cấp võ sĩ (Samurai) đã đưa trà thành
một tín điều mỹ học, tức là trà đạo là như thế! “Mỹ cảm là cốt lõi của tính
cách dân tộc Nhật. Đó chính là đặc điểm căn bản nhất mà tất cả các đặc điểm còn
lại đều tập hợp xung quanh” (Te. Ta.).
Tôn
nhìn kĩ, vết thương trên mặt ông ta, đã làm lệch hẳn chân dung một con người…
đúng là một cái “hạn” lớn. Rồi Tôn hạ giọng:
-Tôi
có một phần lỗi, đã làm tổn thương…
-Không
hẳn thế. Chính tôi khuyên Luyến. Cái thằng người trong chúng mình cũng oái oăm thật:
cái chuyện đời vừa muốn vừa không.
Mậu
ngừng câu chuyện, nhìn xa xăm; đăm chiêu một lát, rồi tiếp tục:
-Tôi
biết, tôi không thể giữ, mà cũng không nên làm hoài phí thời gian của ông. Ông
cứ tạm nán lại. Giúp được cái gì thì cứ giúp. Ông ngủ chỗ tôi hay ngủ chỗ anh
Núi cũng được. Mọi việc tùy ý ông, miễn là ông cảm thấy thoải mái, như thế công
việc mới hiệu quả!
-Thời
gian trước, cũng đã mấy năm, tôi đến một vùng quê tìm hiểu, ban đầu là nghề mộc
cao cấp. Sau đó, tâm đắc nhất là gốm mỹ nghệ, nguyện suốt đời theo đuổi: tôi đã
hình dung được, chọn nguyên liệu, dựng xưởng, tuyển người… Sản phẩm là sứ, có
men lam đặc trưng, tạo ra những độc bình rạn, giống đồ cổ mấy trăm năm trước…
Cái này độc đáo lắm ông ơi!
-Sao
ông không làm?
-Ông
trời bắt tôi còn phải lận đận. Ông có tin không, hình như có cái “số” gì đó, ám
vào người tôi?
Những
ngày sau, Tôn theo sát chân Núi, đến lò sấy, xem khâu đưa củi vào đốt. Tìm cách
chất củi, để lửa cháy đều; hạn chế khói từ lò bốc lên. Những búp trà sau khi
qua khâu vệ sinh, ủ, phơi sương… đến giai đoạn tiếp xúc với nhiệt. Khâu này quyết
định hương vị, màu sắc; đặc biệt những cọng trà khi bốc lên, bỏ vào lòng bàn
tay hình uốn cong cong, nên mới có tên là “Trà Móc câu”… Những người như ông Mậu,
anh Núi… nhìn là biết, không cần phải nếm thử. Trà đó đã đạt được bao nhiêu phần.
Những ngày tiếp theo, Tôn cùng cậu Biển ra bìa rừng, chọn củi: thân cây chắc,
không quá to, nhưng cũng đừng bé tí. Đem về, mang ra bãi cỏ, sắp thành từng
giàn, hứng lấy ánh nắng. Sau một vài nắng tốt, củi được xếp vào chỗ khô ráo,
tránh sương mù, hơi đất. Những chuyện đó xem ra rất nhỏ mọn, không đáng kể,
nhưng khi ông Mậu nghe Núi thuật lại thì gợi cho ông thêm những suy nghĩ. Đặc
biệt là khâu giữ sạch nguyên liệu từ khâu đầu cho tới khâu cuối. Ông Mậu dặn,
phải làm ngay. Ngày xong công việc dồn dập, đêm về, suy đi nghĩ lại, cảm thấy
những việc mà Tôn và anh cùng bàn bạc, cùng làm với nhau; tự nhiên làm cho Núi
bất an. Một đêm, chập chờn, không thể nào chợp mắt. Cái cảm giác này, cứ giày
vò, không thể nào dứt ra được. Núi thức giấc, định chạy lên gặp ông Mậu; do dự,
lại nằm xuống.
///---///--- Hết bài thứ 30
Nguồn: Về một cuộc hành trình - Tác giả Ngô Bá Tiết
0 nhận xét:
Đăng nhận xét