VỀ MỘT CUỘC HÀNH TRÌNH - TÁC GIẢ NGÔ BÁ TIẾT
- PHẦN IV - BÀI 41
Hơn ba mươi năm, trưa nay Tôn nằm ở ngôi nhà,
còn đâu đây bóng dáng ông bà, hình ảnh nào còn lưu dấu của ba mẹ; nhìn lên mái
ngói, hai con chim vào trú nắng, vừa tung tăng nhảy nhót vừa hót líu lo; anh
không thể hình dung nổi, chính nơi mình
đang nằm, đã từng chịu đựng bao đau thương, mất mát không có gì bù đắp được.
Cái bóng đen rùng rợn đó có còn quay lại phủ lên cảnh bình yên này?
Trời chiều, nắng nóng vẫn chưa dịu, Tôn dặn o
ở nhà, chỉ một mình lên mộ. Anh thay áo quần, cầm thẻ hương và đội chiếc nón
lá, ra đi. Từ phía sau nhà, anh băng qua những con đường đất trong xóm, nối
vườn này với nhà kia, gặp hàng tre - trong trí nhớ lờ mờ còn giữ lại - phía này
sẽ lên đến Cồn. Hồi trước, sao đường xa thế, mà bây giờ chỉ chưa tới mươi phút,
đã đứng trước bãi cỏ rộng, xen vào những gò nhỏ và thấp, những khu mộ nằm rải
rác, phân chia theo từng dòng họ, chi, phái. Tôn tìm đến khu mộ họ Lê, nằm lệch
lên phía bắc, ở trên đám đất có nhiều cây thân gỗ mọc rậm rạp. Dùng tay gạt
những bụi cỏ may, bước thêm mấy bước, thì tìm được đất của phái Lê Hồng. Lần
đầu tiên anh mới biết tên của những người thân: Ông, bà nội Lê Hồng Khã/ Cháu
đích tôn Lê Hồng Khê lập mộ. Con dâu, Hoàng Hữu Thị Hạnh. Dưới ụ đất, lớp cỏ
xanh, là những cuộc đời. Cũng giống như cây mọc trong rừng, cây nào cũng có
thân, có lá, gốc rễ chằng chịt; nhưng hàng ngàn cây ấy lại rất khác nhau; giống
như đời người vậy! Lần đó, theo mẹ đi đưa đám ma, nhìn người hàng xóm khóc; anh
hỏi mẹ: “Người chết rồi, có sống lại không hở mẹ?/ Có!/ Nhưng sao người ta
khóc?/ Vì cái nghĩa “sinh li, tử biệt” đó con”. Có lần bà Ấm vừa đi chùa về, bà
vừa bổ quả cau tươi, vừa kể cho Tôn những người đã sang thế giới bên kia: Họ có
chết đâu con, đó là thể xác. Còn cái hồn thì sống mãi. Thế nên nhà Phật thường
dạy: Tu nhân, Tích đức đấy con ạ! Tôn thắp nén hương tiếp theo, lần lượt cắm
lên những ngôi mộ lân cận.
Rời nghĩa trang, ra đường cái, Tôn đi theo con
đường đất rộng, sau mấy cây bạch đàn, nhìn vào vườn và sân rộng, ngôi nhà nhỏ,
thấy người đàn ông lớn tuổi ngồi một mình, tay đang cầm chai thủy tinh, Tôn
thủng thỉnh ghé vào:
-Cháu chào ông.
-Con cái nhà ai mà ghé vào chào?
-Là cháu bà Lành, mới về.
-Chịu khó vào bếp rót
nước uống. Có chè lá vằng mới nấu.
Tôn quay ra, ngồi lên chiếc ghế nhỏ, phía trước mặt. Ông vẫn tiếp tục cầm chai
rượu tu. Được mấy hớp, ông đặt mạnh chai lên bàn thành tiếng khô khốc:
-Như vậy, cậu là cháu ông
xạ Khã?
-Dạ thưa, đúng như thế.
-Thời trẻ, tôi có lúc
cùng học chung với trường bên nhà thờ, ông học lớp trên, tôi chỉ mới vào lớp a
b c. Sau đó, do nhà nghèo, tôi thôi học về đi chăn
trâu, nhưng mà không khổ lắm đâu:… “Chăn trâu sướng lắm chứ/ Đầu đội nón mê như lọng che/ Tay cầm cành tre như roi ngựa”. Ông ta có tư chất, không
gặp thời; chỉ làm cái chức “Lí trưởng quèn”, nhưng mà
“ăn” của dân làng cũng không ít!
Tôn chào từ biệt, bước
chân nhẹ nhàng, tuổi này không thể làm lay động bởi những tiếng ong, tiếng ve;
mà đâu là thực, đâu là lời của rượu! Về đến nhà đã có mấy người bà con tới
thăm. Tôn trịnh trọng, cởi nón:
-Cháu mới về, chưa kịp đi
thăm các bác, các cô.
Bà Lành bưng khay nước lên đặt xuống chiếc chiếu trải giữa nhà,
vừa cười vừa tiếp lời:
-Cháu ơi, đây là ông Hãn,
Trưởng họ, thay ông nội, hơn chục
năm rồi. Đây là bà. Ngoài bảy mươi mà hàng ngày vẫn vác cuốc ra đồng theo con
cháu. Ngồi cạnh là vợ chồng chú Hối, con cả của ông…
-Để ông nói qua cho cháu
nghe: họ ta có nhiều chi, ông nội là Lê Hồng. Chi ông là Lê Đình…
Mặt trời như quả cầu lửa,
sắp khuất sau dãy núi phía xa. Gió khô nóng đã dịu bớt. Ở ngoài cổng, người con
gái dáng thanh mảnh đang gánh một đầu bó rau, đầu kia
bó củi, đi vào. Bà Lành nói vọng ra:
-Anh Cu… mới ở xa về đó
con.
Tôn bước ra, đến gần:
-Công việc nhiều hay sao
mà về tối thế hở em?
Thạch đặt gánh xuống, một
thoáng ngạc nhiên, nhìn rất nhanh người con trai, rồi cười:
-Anh đã đi quá lâu!
Bà Lành đi xuống bếp cùng với Thạch:
-Con tắm rửa rồi xuống
chợ cầu Ga mua bánh bột lọc. Tối nay sẽ họp họ.
Khi những con gà “cục,
cục” kéo nhau nhảy lên chuồng, thì bà con đã kéo đến rất đông. Ông Hãn lên
tiếng:
-Bà Lành ơi, bà cho đem hai chiếc chiếu hoa ra trải giữa sân, bà
con ta ra ngồi ngoài đó vừa rộng rãi vừa thoáng mát.
Khi mọi người yên chỗ,
ngồi chật kín trên hai chiếc chiếu, ông Hãn sửa tư thế, hai chân xếp bằng, lưng
thẳng, mở lời trịnh trọng:
-Cháu Hồng Khê, con anh
Hồng Kha, cháu nội đích tôn ông Hồng Khã, Trưởng họ ta nhiều năm, do hoàn cảnh phải chịu cảnh lưu
lạc, nay đã trở về.
Thế là tiếng ồn ào rộ
lên. Người thì hỏi, sao mà phải lưu lạc, có người muốn biết anh ta đi đến những
nơi chốn nào, người thì muốn hỏi có đi lính không để có thể nhờ cậy chuyện
riêng tư gì đó. Đến lúc, gần như một cuộc họp chợ, chuyện của Tôn chìm dần vào
chuyện đời thường hàng ngày gần gũi hơn, thiết thực hơn. Trời đầy sao. Đêm đã
khuya. Mấy đứa trẻ lăn ra chiếu ngủ say
sưa. Ông Hãn nhắc mọi người ra về vì ngày mai còn phải ra đồng sớm.
Cuộc họp họ đơn giản thế
thôi, đầy đủ các gia đình. Ông Hãn thấy lòng nhẹ nhàng, thư thái. Rồi như một
cuộc họp họ nhỏ tiếp theo. Ông đi vào nhà trên - là “nhà chái” - dựa lưng vào “ ghế trường kỉ”, ngồi đối diện
là bà Lành; cạnh ông là Tôn, phía bên kia,
Thạch ngồi vào ghế đẩu. Với nụ cười rất cởi mở, ông nói nhỏ nhẹ:
-Khê ơi, chuyện này vừa là
việc họ, nhưng chính là gia đình. Hơn ba mươi, người ta thường nói: “Tam thập
nhi lập” cháu phải tính liệu, không để chậm trễ hơn nữa! Ngày trước, họ Lê
trông cậy vào Hồng Kha, ba cháu; ngày nay, chi Lê Hồng trông mong vào Hồng Khê
đó cháu!
Ông dừng lại, cầm cốc
lên, rồi từ từ để xuống, cổ hơi khô mà chưa thể uống. Ông quay lại phía Thạch:
-Bạn gái cháu, có mấy
đứa, nghe mụ nhà ông khen lắm; cháu cố giúp ông trong chuyện này.
Thạch liếc nhanh sang
phía Tôn ngồi, ấn tượng ban đầu, chưa thật gần, nhưng cũng không phải quá xa
cách:
-Thưa ông, con Lam đang học ở trong Huế, con Hồng thì giúp mẹ nó trông cửa
hàng tạp hóa ngoài thị trấn, còn con Vân, được lắm: hai mươi bảy, đọc “Những
người khốn khổ” bằng tiếng Pháp, gia đình gia giáo!
///---///--- Hết bài thứ 41
Nguồn: Về một cuộc hành trình - Tác giả Ngô Bá Tiết
0 nhận xét:
Đăng nhận xét